Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

WWW.TINTUC CAONIEN

BẢN TIN HÀNG TUẦN ( Phần 1)
Số 15/2011 Ngày10/04/2011
---------- 
NỘI  DUNG
  • Tin tức lượm lặt
  • Lá số tử vi
  • WHO cảnh báo cần ngăn chặn gấp tình trạng kháng thuốc
  • Rượu giết 2.5 triệu người một năm
  • Các loại trái cây có lợi cho trí tuệ
  • Vận đông như thế nào để có lợi cho sức khỏe
  • Làm sao cải thiện giấc ngủ người già
www.tintuccaonien.com
TINTỨC LƯỢM LẶT

clip_image002_thumb


Tại Lybia, cuôc chiến vẫn đang tiếp diễn tại Misrata,thành phố duy nhất ở miển tây Lybia ở trong tay quân nổi dậy. Ngơài ta tình hình tại Syria, Côte d’Ivoire cũng vẫn còn căng thẳng. Tại Egypt quân đội dẹp chống đối

clip_image004_thumb

http://hken.ibtimes.com/articles/132025/20110408/japan-earthquake-youtube-video-home-footage-tokyo-miyagi-social-media.htm

Ngày 7 tháng 4 một cơn hậu chấn 7.4 đảxẩy ra tại miền dông bắc Nhật bản làm 4 ngưởi thiệt mãng và 166 ngưởi bị thương.. Trung tâm Điện Hạt nhân Fukushima Daini (sồ 2) tại vùng này không bị thiệt hại gì.

clip_image006_thumb

Ngay sau khi tòa án Việt Nam ra bản án 7 năm tù và 3 năm quản chế đối với Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, các luật sư Việt trong khu vực Bắc Mỹ đã chỉ trích bản án mà họ gọi là đi ngược với tinh thần của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và những qui định của Công ước Liên hiệp quốc về Quyền Dân sự và Chính trị mà Việt Nam đã tham gia vào năm 1982. Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Mark Toner cho biết chính phủ Mỹ cũng cảm thấy bất bình về tình trạng thiếu sót các thủ tục pháp lý cần thiết trong phiên xử và việc giới hữu trách Việt Nam tiếp tục giam giữ một số người đã tìm cách theo dõi phiên tòa một cách hòa bình.

Tin hay không tin ???

Lá số tử vi
Phạm Thành Châu (bài do bạn BaTran giới thiệu)

Bạn tin có số mạng không? Người tin thì bảo “Giày dép còn có số, huống gì con người.” Người không tin, quạt lại “Mấy thầy tướng số có biết được tương lai bản thân mấy thầy không? Hay chỉ nói phét kiếm tiền?” Người tin với người không tin, cãi nhau, có bao giờ ai chịu thua ai!

Nay tôi xin kể, một chuyện về chính bản thân tôi, để nhờ bạn phán xét, rằng con người có số phận hay không? Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan hôn tang tế. Ai bịnh hoạn đến mời ông tôi bắt mạch, hốt thuốc, người nào có ý xây dựng gia đình cho con cháu cũng đến nhờ ông tôi xem tuổi có hạp không, hậu vận có khá không? Hoặc có người thân vừa qua đời cũng đến thỉnh ý về ngày giờ động quan, xem hướng mồ mả. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao? Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi.
Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy. Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse,” là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên, thể thao của thị xã. Ðến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố.
Ðó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp. Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm. Ðến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo “Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!”
Tôi đáp cho vui lòng ông tôi “Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.” Ông tôi cười “Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.” Tôi hỏi “Như vậy tương lai của con ra sao?” Ông tôi trầm ngâm “Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy.Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy “Ðức năng thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quântử...” Tôi tò mò “Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?” Ông tôi lại cười “Người xưa nói rằng ‘Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư’... Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.” Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin, nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo “Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?” Ông tôi có vẻ hào hứng lắm “Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát...
” Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển. Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặc biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu. Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức lêu lổng, chẳng ai quản lý được cả. Ði học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò, rên rỉ, nỉ non mấy bài hát mà Duy Khánh, Chế Linh thường hát. Ðến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm “hành trang ứng thí.” Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh! Con người khi gặpkhó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa. Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè...” trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ... Thực tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống, long trọng khấn vái “Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết.” Khi ngẩng lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm. Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!? Chúng thắc mắc, tôi phét lác “Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.” Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông. Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt. Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm.” Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước. Ðứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Ðến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám.
Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?” Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo “Nói đi!” Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc “Nói đi!” Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi. Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói “Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tang cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!” Ông ta ngẩng lên nhìn tôi “Sao anh biết?” Tôi phấn khởi “Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mõi trong người.” Ông ta lại nhìn tôi, mặt lạnh tanh “Ðây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc là gì không? Viết công thức ra xem?” Tôi gãi đầu, ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào?
Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải người ngoài hành tinh, gì cũng không biết! Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên, đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi “Anh học vạn vật với thầy nào?” “Thưa thầy, em học với thầy Ðồng Ðen.”
Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tội phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo “Gặp thầy Ðồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay.Gần hết giờ rồi!” Tôi thưa “Thưa thầy, em là người chót.” Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng. Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật!
Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như mình nằm mơ. Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Ðúng như ông tôi nói “Thi đâu đậu đó!” Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Ðốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp.
Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở. Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài luật Hiến Pháp của giáo sư Nguyễn Văn Bông.
Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một. Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Ðốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không? Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được? Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi. Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn... Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói “ông quan thanh liêm” cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì, hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi. Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu. Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Ðức.
Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người “văn võ toàn tài,” sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh. Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công danh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng. Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Ðến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (?)... Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV. Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù.
Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân... Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy... Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ không phải mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn,” bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù, cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, cán bộ việt cộng vừa chiếm được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả thù... Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình. Ðúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải phóng miền Nam,” đến câu “Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng...” thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào “Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!” Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù khôngbiết ngày nào ra? Khổ nỗi, cán bộ cộng sản lại bảo “Ty Công Vụ” là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết. Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh...
Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng! Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy? Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rãi, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẽ ngang, vẽ dọc... Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa.
Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm. Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang “Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?” Tôi bảo “Tôi làm đội trưởng.” “Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?” Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi... Ông A, ông B, ông C... Ông ta lại hỏi “Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?” “Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...” Ông bạn tù giải thích “Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Ðây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?” Tôi nổi xùng “Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?” “Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?” Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười.
Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản. Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, hoặc khi đày lên núi rừng, nếu có biến động, cứ bắt tù ngồi vào bao bố và bắn chết và khiêng bỏ xuống hố, tiện việc nhà nước, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải dùng bao bố? Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp đồng bào họ lại bảo “Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!” Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp... đủ cả. Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp... sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra mục đích lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi. Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Ðông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Ðủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo. Tôi ở trong một chúng cư đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn... ngày nào cũng xảy ra. Ðậu xe, khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Ðôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc... Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt. Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại. Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử Hội Ðồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương. Ðến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng, tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi tham gia Hội Ðồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn cứ năn nỉ, tôi đành chấp nhận, cứ nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán, thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là “đẹp không thể tả!” Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một hồ nước mùa thu” long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt,” mặt cứ thộn ra, ai cũng thấy rõ. Thế là từ “lần đầu gặp gỡ” hình ảnh cô, giọng nói, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn, hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi xin trợ cấp, xin việc... Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông trung tá, gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng. Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li, sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ. Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp... Ði đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện lí do là không rành tiếng Mỹ. Cô thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại hay không! “Ai chiến thắng mà không hề gian khổ? Nghĩa là cứ nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai.” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô. Nhưng phải làm cách nào mà nếu cô có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược lại cô sẽ nghĩ rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng lên, vào bên trong lo việc bếp núc. Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể chuyện nầy, hay lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt “Cô có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người, trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, miệng lúm đồng tiền, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?” Cô lặng yên một lúc rồi nói “Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi một người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta...” Nói xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền.  Tôi buồn chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, trong đầu tôi, cô vẫn còn đẹp nhưng rất xa lạ, đến độ tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác. Cái Ban Chấp Hành Cộng Ðồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân dịp Việt Cộng đưa mấy ca sĩ tân nhạc, cổ nhạc qua Miền Ðông nước Mỹ làm công tác văn hóa vận, cả Hội Ðồng Quản Trị với Ban Chấp Hành họp lại, tìm cách tẩy chay. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lên kế hoạch, chương trình rất kỹ lưỡng, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả! Tôi họp mọi người để phân công. Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi. Tôi quyết liệt phản đối thì các vị đó lại cười “Tụi tôi biết anh quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động đồng bào không đến coi hát của văn cộng việt cộng, là chuyện nhỏ...” Tôi ngạc nhiên “Sao quí vị biết tôi đi tù cải tạo?” Các ông ấy nhao nhao lên “Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Ði chung một chuyến bao bố (Tù bị đày ra Bắc, được phát bao bố), ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy.” Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, nên không nhận ra, vả lại, có người đẹp bên cạnh thì tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa! Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp... ngày xưa! Và tôi vẫn lại làm xếp họ! Tôi đâukhác gì quan tể tướng? Lúc trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói “bye!” một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ.
Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quí vị ấy tiếp tay, liên hệ với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu buồn phiền!”
Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay “Cô thấy nhiệm vụ của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?” Cô nhìn tôi dò xét “Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là không khó khăn bao nhiêu.” Tôi hỏi “Thế cô có thể thay tôi làm chủ tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong nhiệm vụ nầy.” Cô ngạc nhiên “Anh định làm gì mà trao nhiệm vụ nầy cho tôi?” Tôi nói “Tôi sắp đi tiểu bang khác.” “Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì cô gái mà anh đã kể cho tôi nghe?” Tôi làm ra vẻ suy tư “Ðúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa... Tôi hi vọng, cô làm chủ tịch, sẽ được mọi người giúp đơ...” Cô lắc đầu “Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi...” Tôi đành nói “Thôi được, tôi sẽ tính sau. Dù sao thì tôi cũng nhất quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi chán rồi. Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm ở đó.” Lúc đứng lên cô cười hỏi “Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không có tiền thì tôi cho ghi sổ.” Tôi cũng cười bảo “Khi thất tình thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do cô pha lần cuối trước khi lên đường.” Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ “Tôi mang đến anh một tin vui đây.” Tôi nghi ngờ “Ðang rầu thúi ruột, vui gì nổi!” “Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô Bé Ni không?
Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?’ Cô bé trả lời “Dạ thương!” Tôi hỏi “Thương nhiều hay ít?”Cô bé nói “Dạ thương nhiều!” Vậy anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?”
Tôi kêu lên “Trời đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất tình được!?” Cô nhìn tôi hóm hỉnh “Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?” Tôi lắc đầu, vừa chán vừa ngượng “Ðó là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên tôi...” Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi. Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi không nói thì không còn dịp nào khác nữa “Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được. Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi... Chỉ xin cô đừng cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi làm cho cô bực mình...” Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới nói “Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng bào...Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi.
Có cô nào mắt lá răm, miệng núm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh...” Bao năm nay, quí ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch, làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu,thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên “Hoan hô chủ tịch gia đình trị!” Chỉ vì vợ tôi vẫn lại là cô phó chủ tịch ngoại vụ năm nào. Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người có số mạng không?”

WHO cảnh báo cần ngăn chặn gấp tình trạng kháng thuốc
Đánh dấu ngày Y Tế Thế Giới mùng 7 tháng 4 v ừa qua, Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) cảnh báo hàng trăm ngàn người có thể chết mỗi năm vì tình trạng kháng thuốc đang gia tăng đối với những căn bệnh chết người và kêu gọi có hành động gấp để ngăn chặn sự lan tràn tình trạng kháng thuốc.
clip_image008_thumb

Trước khi chất penicillin -- loại kháng sinh đầu tiên trên thế giới-- được nhà bác học Alexander Fleming sáng chế ra vào năm 1928, vô số người đã thiệt mạng chỉ vì những vết thương đơn giản và các bệnh nhiễm trùng. Chẳng hạn như trong Thế chiến Thứ Nhất đã có tới 18% số binh sĩ Mỹ đã chết vì bệnh sưng phổi, nhưng trong Thế Chiến Thứ Hai, sau khi penicillin được tìm ra, chỉ có 1% bị chết vì bệnh này mà thôi.
WHO cảnh báo rằng thế giới đang có nguy cơ mất hết cách chữa trị nhiệm mầu trên đây. Bác sĩ Mario Raviglione, giám đốc phòng chống lao của WHO gọi tình trạng kháng thuốc là một nguy cơ toàn cầu. Ông nói “ Nó giết chết hàng trăm ngàn người mỗi năm. Nó là thách thức lớn đối với việc chữa trị và kiểm soát những căn bệnh nhiễm trùng từng được chữa khỏi trong quá khứ. Đối với một số bệnh, dường như nó đ ưa chúng ta trở về thời kỳ... tiền kháng sinh vào những năm 1930 hoặc 40.”
Việc khám phá và sử dụng thuốc chống vi trùng để trị các loại bệnh như cùi, lao, lậu và giang mai đã thay đổi giòng lịch sử y khoa của con người. Nhưng hiện nay sự hiệu nghiệm của các loại thuốc đó đang bị đe dọa, vì lý do chúng được dùng quá ít hoặc quá nhiều hoặc dùng không đúng cách, tất cả những điều đó làm nẩy sinh tình trạng kháng thuốc.
Bác sĩ Keiji Fukuda ,phụ tá Tổng Giám Đốc của WHO cho biết sự tiến triển và lan rộng của tình trạng kháng thuốc đang là mối lo lớn. Theo ông “Các vấn đề đang qua mặt các giải pháp. Đó là điều chúng ta nhìn thấy ngay lúc này. Không một hành động riêng rẽ nào có thể hạ giảm vấn đề. Chừng nào người ta còn dựa vào thuốc kháng sinh và kháng khuẩn, thì tình trạng kháng thuốc còn đươc nuôi dưỡng và phát triển.”
clip_image009_thumb

WHO có một chương trình hành động gồm 6 điểm để bảo toàn việc điều trị bằng thuốc khá ng trùng như: lập những quy trình theo dõi để phát giác tình trạng kháng thuốc, khuyến cáo sử dụng thuốc men thích đáng, hoạch định các biện pháp phòng tránh và kiểm soát sự lây truyền các bệnh nhiễm trùng, nghiên cứu và phát triển những loại vắc xin mới, những loại thuốc mới trị các bệnh nhiễm trùng

Rượu giết 2,5 triệu người một năm

clip_image010_thumb
Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO) kêu gọi các nước có hành động để giảm số người chết vì rượu, trung bình khoảng 2,5 triệu người một năm.
Theo cơ quan này thì trong số các loại bệnh không lây, rượu đứng hạng 3 về mặt gây ra bệnh hoạn và chết chóc. Đa số cái chết có liên quan đến rượu là do lái xe trong lúc say, đau gan, ung thư, tim mạch. Rượu còn là nguyên nhân của 200 loại bệnh khác.
Phúc trình mới đưa ra của WHO cho thấy có hơn 6% đàn ông chết vì những lý do có dính tới rượu, trong khi phụ nữ chỉ có trên 1%. Tại Nga và các cộng hòa cũ, trong 5 người đàn ông chết thì có 1 người vì có liên can đến rượu. Tại một số nước, một phần ba cái chết của giới trẻ là do rượu

Bà Shekhar Saxena, Trưởng ban Sức khỏe Tâm thần của WHO nói rằng “Uống rượu là hiện tượng ngày càng tăng tại các nước nghèo, nhất là tại châu Phi và châu Á. Những nước này không có những luật lệ nghiêm ngặt về uống rượu và không có sẵn các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho dân ghiền. Tại châu Âu và châu Mỹ, tỷ lệ người uống rượu vẫn ở mức ổn định.”
Năm 2005, tỷ lệ uống rượu cho mỗi đầu người từ 15 tuổi trở lên là 6,13 lít một năm. Bà Saxena nói dân ghiền rượu có tuổi thọ ngắn hơn trung bình 10 năm so với người không nhậu.

Bà Saxena nói tiếp: “Phần lớn những cái chết hay thương tật do rượu lại hay rơi vào thành phần trẻ hoặc trung niên, thay vì những người già. Do đó trong số 2,5 triệu người chết mỗi năm, ta sẽ thấy có những người chưa đến tuổi phải chết, hay thường gọi là chết sớm, đa số dưới 60 tuổi.”
C ơ quan WHO khuyến cáo muốn chống rượu có nhiều cách hiệu quả như tăng thuế đánh vào rượu, hạn chế cấp giấy phép cho các cửa hàng bán rượu, tăng tuổi được phép uống rượu , ban hành luật mới và cấm quảng cáo.


Các loại trái cây có lợi cho trí tuệ

Bác sĩ  Ngô Xuân Thiều
1. Chuối tiêu
Chuối tiêu, chất thịt nhu nhuyễn, thơm ngọt, dễ tiêu, tính hàn, có giá trị dược dụng khá cao, chữa đại tiện bí, thanh nhiệt nhuận phế, trừ phiền khát, giải tửu độc, bồi tinh tủy. Vì có tính hàn, nên người nhiều vị toan không nên ăn, người đau dạ dày, người tiêu chảy nên ăn ít.
Chuối tiêu có rất nhiều dinh dưỡng. Trong 100g chuối tiêu có 1,2g an-bumin, 0,5g chất béo, 19,5g hy-đrô các-bon, 0,9g xen-luy-lô, 9mg can-xi, 31mg phốt-pho, 0,6mg sắt. Ngoài ra, chuối còn chứa các chất như sun-phát am-mô-ni-um, vi-ta-min C, E… Chuối tiêu có thể giúp cho đại não chế tạo thành phần hóa học của "huyết thanh tố" trong cơ thể người. Chất này có thể kích thích hệ thần kinh mang lại niềm vui, các tín hiệu bình tĩnh, làm an giấc ngủ cho người, lại còn có hiệu ứng giảm đau nên được gọi là "quả của trí tuệ".
Hơn nữa, chuối cung cấp nhiều ion ka-li-um, có thể hạ huyết áp, ức chế tác dụng của ion na-tri-um - nhân tố làm huyết áp cao, thương tổn mạch máu.
Nếu thiếu ka-li-um sẽ có hiện tượng chóng mặt, toàn thân vô lực. Chuối tiêu không những chứa nhiều dinh dưỡng, chứa rất ít na-tri-um, không chứa cholesterol nên ăn nhiều chuối phòng được bệnh béo phí. Thường ăn chuối tiêu có ích cho đại não, bồi bổ thần kinh, nhuận phế, trị ho, phòng bí đại tiện.
2. Nho
Nho (bồ đào) còn gọi là "thảo long châu" là loại quả mọi người ưa thích. Nho vị ngọt, lợi tiểu, thanh huyết, có hiệu quả đối chứng bệnh yếu dạ dày, thống phong (goutte). Nó còn có khả năng ích khí, chịu đựng đói, chịu đựng rét. Thường xuyên ăn nho có thể mạnh thân ích thọ.
Trong 100 gam nho, nước chiếm 87,9g, an-bu-min 0,4g, chất béo 0,6g, hy-đrô các-bon 8,2g, xen-luy-lô 2,6g, can-xi 4mg, phốt pho 7mg, sắt 0,8mg, ca-rô-ten và các vi-ta-min B1, B2, C, P. Nho còn chứa hơn 10 loại chất đạm cần thiết cho cơ thể và nhiều loại acid trái cây. Thường xuyên ăn nho có tác dụng bổ ích đối với người thần kinh suy nhược, người mệt mỏi quá độ. Rượu nho là một thứ đồ uống có độ cồn thấp, lại có nhiều loại đạm chứa nhóm NH2, vi-ta-min… Tính ôn hòa, màu đẹp, có tác dụng hoạt huyết khai khiếu, kiện tì, giúp tiêu hóa, tỉnh thần kinh.
Nếu bạn bị nhiệt, phiền khát, có thể lấy nước trấp nho, dùng lửa nhỏ cô đặc quánh như dạng cao, thêm mật ong (gấp bội), đun tiếp, khi sôi thì tắt lửa, để nguội làm bánh dùng dần mỗi lần bạn dùng 1 thìa canh chiêu với nước sôi để ấm. Nho có thể dùng điều chế rượu. Những người thiếu máu não đầu choáng, tim hồi hộp, có thể uống lượng rượu nho thích hợp, mỗi ngày 2-3 lần.
3. Long nhãn
clip_image012_thumb

Long nhãn còn có tên là phế viên, là một trong 4 "đại danh quả", được mọi người tôn sùng, có nhiều ở Việt Nam. Long nhãn vị ngọt, công năng chủ yếu là khai vị tỉnh tì, dưỡng huyết, an thần, bổ hư, ích trí tuệ.
Long nhãn có thể ăn tươi, chế thành dạng mứt, thành cao long nhãn, hoặc sấy khô. Long nhãn có giá trị dinh dưỡng cao, được thị trường trong và ngoài nước tôn là thượng phẩm. Có thể bóc thịt long nhãn tươi cho vào cháo ăn càng tăng khẩu vị.
Trong 100g thịt long nhãn chứa 80g nước, 1,2g an-bu-min, 0,1g chất béo, 16g hy-đrô các-bon, 0,2g xen-luy-lô, 13mg can-xi, 26mg phốt-pho, 0,4mg sắt. Ngoài ra còn chứa một ít suyn phát, hạch hoàng tố, a-xít ar-cor-bi-que (thuốc chống hoạt huyết). Long nhãn là thần phẩm, già trẻ đều dùng rất thích hợp.
Nếu bạn dùng long nhãn nhục sao với toan táo nhân, sấy cùng bạch truật và phục linh đều 50 gam, lại thêm mộc hương, nhân sân đều 25g, chích cam thảo 12g nấu thành thang gọi là quy tì thang. Thang này chữa được chứng tư lự quá độ, hay quên, hồi hộp, tâm phiền, mất ngủ, tự ra mồ hôi, co giật…
4. Táo Tây (bình quả)
clip_image014_thumb

Táo Tây có một tên đẹp là kí ức quả vì ăn nhiều táo Tây có hiệu quả tăng trí nhớ và nâng cao trí tuệ. Táo chứa nhiều chất dinh dưỡng hợp nhu cầu đại não như đường, vi-ta-min, chất khoáng. Điều quan trọng là táo có nhiều chất kẽm (Zn). Kẽm là nguyên tố trong phân tử chất "hạch toan" liên quan đến trí nhớ. Nếu thiếu kẽm sẽ khiến cho khu "hải mã" tiếp cận vỏ não phát dục kém, ảnh hưởng đến sức của trí nhớ. Kẽm còn liên quan tới sự phát sinh kháng thể, nâng cao miễn dịch cho cơ thể.
Táo Tây có tác dụng hạ thấp lượng cô-lét-tơ-rôn, gia tăng công năng phân tiết mật và a-xít mật, vì vậy có thể tránh được cô-lét-tơ-rôn trầm lặng trong dịch mật gây sỏi mật. Táo có tác dụng thông đại tiện. Trong táo chứa nhiều a-xít hữu cơ có thể kích thích nhu động dạ dày, ruột làm cho dễ đại tiện. Ngoài ra táo lại ức chế được chứng tiêu chảy nhẹ.
Táo chứa khá nhiều ka-li, ức chế sự thừa nát-ri và tăng bài tiết nát-ri ra ngoài. Trong táo còn chứa phốt-pho và sắt (Fe) có tác dụng bổ não, bổ máu, an thần dễ ngủ. Ngửi mùi thơm của táo có tác dụng làm tâm cảnh con người chuyển biển tốt, tinh thần khoan khoái nhẹ nhàng. Nước táo ép có tác dụng hạ huyết áp.
Trong 100g táo tây chứa 6-12g đường quả (fructose), 2-4g đường glu-cô, 1-5g đường sắc-ca-rô, lại còn chứa nguyên tố vi lượng như kẽm, can-xi, phốt-pho, sắt, ka-li, các vi-ta-min C, B1, B2…
Phương ngôn có câu: "Nếu sau bữa ăn, ăn một quả táo, thì chẳng cần mời thầy thuốc đến nhà".
5. Hạch đào (đào nhân)
clip_image016_thumb

Hạch đào còn gọi là hồ đào. Trước tiên, người ta đập vỡ vỏ hạt đào, bỏ vỏ lấy nhân để ăn, có thể thêm đường phèn trộn đều thành dạng kem hạch đào. Khi ăn dùng 2 thìa canh kem đó hòa với nước chín mà uống. Trộn đều sẽ thấy nổi lên thứ váng màu trắng gọi là sữa hạch đào.
Sữa đó có tác dụng bổ não rất mạnh. Hạch đào không chỉ là món ăn bổ não mà còn chữa được thần kinh suy nhược. Nếu người già có các chứng đầu choáng, mất ngủ, tim hồi hộp, kém ăn, eo và lưng đau, toàn thân vô lực… mỗi buổi sáng nên ăn 10g nhân hạt đào để bồi bổ.
Ngoài ra, đào có công năng bổ khí dưỡng huyết, nhuận táo hóa đàm, ôn phế, nhuận tràng.
Trong 100g hạch đào có 20g an-bu-min, 60g chất béo, 10g hy-đrô các-bon. Ngoài ra còn chứa can-xi, phốt-pho, sắt, các chất ca-rô-ten, hạch hoàng tố. Sau khi ăn hạch đào nhân sẽ giảm sự hấp thu cô-lét-tơ-rôn qua đường ruột.
Nhân hạch đào là thuốc bổ cho người cao huyết áp, xơ hóa động mạch vành. Trong hạch đào có nguyên tố kẽm là thành phần cần thiết cho não thùy thể.
Thường ăn đào nhân có tác dụng bổ sung dinh dưỡng cho não, làm khỏe bổ não, ích trí tuệ
Vận động như thế nào để có lợi cho sức khoẻ ?

Hoàng Khánh Toàn
Sự sống là vận động, cơ thể con người dù ở bất cứ trạng thái nào cũng luôn luôn vận động. Nước chảy thì không hôi thối, trục cánh cửa quay thì không han gỉ, cơ thể con người thường xuyên vận động thì mạnh khoẻ, ít bệnh tật và sống lâu.
clip_image017_thumb
Các nhà động vật học phát hiện rằng: mọi động vật ở trong môi trường hoang dã bao giờ cũng sống lâu hơn khi bị nuôi nhốt trong vườn bách thú. Ví như, thỏ hoang sống trung bình 15 năm, còn thỏ nuôi nhốt trong chuồng dù tốt mấy cũng chỉ sống được 4 - 5 năm; lợn rừng sống lâu gấp đôi lợn nhà,... Nguyên nhân chủ yếu là động vật hoang dã phải vận động nhiều hơn động vật nuôi nhốt. Với con người cũng vậy, vận động là cái gốc của sự mạnh khoẻ, sống lâu. Nhưng, vấn đề là ở chỗ: vận động như thế nào để có lợi nhất cho sức khoẻ ?
Có người, dù tuổi đã cao nhưng vẫn thích những loại hình vận động hùng hục, tốn kém nhiều sức lực chẳng kém gì thanh niên. Ngược lại, có người dẫu đang ở tuổi thanh xuân, nhưng suốt ngày giam mình trong buồng vi tính, nếu có vận động thì cũng chỉ làm vài động tác khoa chân, múa tay cho phải phép. Điều đó hoàn toàn đi ngược lại với qua điểm của các nhà dưỡng sinh y học cổ truyền. Theo họ, nguyên tắc dưỡng sinh vận động, cụ thể là :
- Chọn hình thức luyện tập hợp lý: Nghĩa là, hạng mục tập luyện phải phù hợp với sở thích, tuổi tác, nghề nghiệp, điều kiện sức khoẻ. Ví như, với người có tuổi, do sức lực cơ bắp suy giảm, phản ứng thần kinh chậm chạp, khả năng phối hợp kém linh hoạt, thì nên chọn những những phương thức tập luyện nhẹ nhàng, mềm mại như đi bộ, thái cực quyền, dưỡng sinh, yoga...; với thanh niên trai tráng thì nên chọn những hình thức tập luyện vận động đòi hỏi sức lực nhiều như chạy xa, bóng rổ, bóng đá...; với những nhân viên bán hàng, đầu bếp... vốn phải đứng lâu, tĩnh mạch chi dưới dễ bị giãn thì khi vận động không nên chạy nhảy nhiều mà nên chọn các bài tập ở tư thế nằm ngửa, giơ cao chân...
- Kết hợp hài hoà giữa động và tĩnh : nghĩa là, khi vận động nhất thiết cả thần lẫn hình, cả trong lẫn ngoài phải bảo đảm "trong tĩnh có động", "trong động có tĩnh", "lấy động chế tĩnh", "lấy tĩnh chế động", động ở ngoài mà tĩnh ở trong, động chủ luyện tập mà tĩnh chủ dưỡng thần, tuyệt đối không thiên lệch.
- Phải hết sức kiên trì và đều đặn: cổ nhân có câu: "Băng dày ba thước, đâu phải do lạnh một ngày", ý nói không thể một sớm một chiều đã nên chuyện. Vậy nên, việc luyện tập phải thường xuyên, không gián đoạn, nếu chỉ vì cao hứng mà bữa đực bữa cái thì chẳng nên cơm cháo gì mà nhiều khi lại mang hoạ vào thân.
- Vận động phải vừa sức, không nên thái quá mà bất cập: nghĩa là, việc tập luyện phải vừa sức đúng như y thư cổ Thiêm kim yếu phương của danh y Tôn Tư Mạo đã viết: "Theo đạo dưỡng sinh, cần thường xuyên luyện tập, nhưng chớ tập đến mức quá mệt, chớ tập quá sức". Vậy thế nào là tập vừa sức ? Nếu sau mỗi lần tập luyện mà cơ thể cảm thấy thoải mái, tinh thần sảng khoái, huyết áp, tần số mạch dao động không quá mức là được.
- Vận động phải tuần tự, thư thái tự nhiên: Nghĩa là, việc tập luyện phải từ từ, tịnh tiến, đi từ dễ đến khó, từ nặng đến nhẹ, từ đơn giản đến phức tạp. Tuyệt đối không được "đốt cháy giai đoạn". Ví như, việc chạy chậm phải đi từ cự li ngắn đến dài, từ tốc độ rất chậm nhanh dần đến tốc độ vừa phải.
- Phải lựa chọn vận động vào thời gian thích hợp: Nhìn chung, tập vào sáng sớm là rất tốt vì khi đó không khí tương đối trong lành, nồng độ dưỡng khí nhiều, lượng khí cac-bo-nic thấp. Tập vào buổi chiều hoặc buổi tối cũng được, vì sẽ giúp cho cơ thể giải toả mọi căng thẳng sau một ngày làm việc vất vả, tuy nhiên không nên tập quá nhiều vì sẽ khiến cho hệ thần kinh bị hưng phấn làm ảnh hưởng tới giấc ngủ. Việc tập luyện cũng nên tránh xa bữa ăn vì nếu tập ngay sau bữa ăn thì sẽ ảnh hưởng không tốt tới hoạt động hấp thu và chuyển hoá của tì vị, thậm chí có thể đưa đến những tai biến không đáng có.

Làm sao cải thiện giấc ngủ người già

Nguyên nhân mất ngủ ở người già có nhiều, có nguyên nhân sinh lý là do quá trình lão hóa tự nhiên và cũng có những nguyên nhân bệnh lý. Người cao tuổi có thể dùng một số cách để cải thiện giấc ngủ trước khi phải dùng tới thuốc ngủ.
clip_image018_thumb

Dùng hoa thiên lý xào với tim lợn hoặc nấu canh với thịt nạc, ăn hàng ngày hay dùng 2-4g/ngày tâm sen hãm với nước sôi, uống thay trà; nước ép quả cà chua pha với mật ong, uống buổi tối. Đó là những loại đồ ăn thức uống rất tốt cho giấc ngủ phù hợp với tuổi già.
Các cụ cũng cần quan tâm đến một số yếu tố như: không uống cà phê, không nên dùng các thức ăn, đồ uống có caffein trước khi đi ngủ. Bữa tối nên ăn nhẹ, không dùng đồ ngọt, không uống nhiều nước, có thể tắm nước ấm hoặc lau người bằng nước ấm trước khi đi ngủ.
Người già chỉ lên giường khi đã sẵn sàng cho giấc ngủ. Trước khi ngủ không nên nói chuyện, không đọc sách báo, không xem ti-vi… Phòng ngủ cho người cao tuổi phải yên tĩnh, ánh sáng thích hợp, bảo đảm thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông.
Mỗi sáng các cụ nên thức dậy vào một giờ nhất định. Buổi trưa cũng ngủ ngủ vào một giờ nhất định và chỉ nên ngủ 30-45 phút.
Việc tập luyện đều đặn ở người cao tuổi là rất tốt nhưng cần tránh tập các môn hoạt động thể lực mạnh sau 6 giờ chiều. Các bài tập như: đi bộ, xoa bóp, thư giãn rất tốt cho sức khỏe và giấc ngủ của người già
clip_image019_thumb

Sau khi đã ăn uống và vận động một cách khoa học mà vẫn không cải thiện được giấc ngủ thì người già mới phải dùng thuốc. Chỉ sử dụng những thuốc theo đúng hướng dẫn của bác sỹ, tránh tự ý mua thuốc về dùng. Hãy trao đổi với bác sỹ khi gặp tác dụng gây mất ngủ của thuốc. Việc sử dụng thuốc điều trị mất ngủ cần phải được đi khám và có sự kê đơn của bác sỹ chuyên khoa tâm thần. Con cháu cần có sự quan tâm tới người cao tuổi để tránh được những nguy hại không đáng có từ bệnh mất ngủ, bảo vệ sức khỏe người thân của mình.