Thứ Tư, 8 tháng 6, 2011

NGƯỜI VIỆT VÙNG BIỂN HỒ TONLÉ SAP

Fr: Chieu.Nguyen*Tong Fam
Mời xem những người Việt ly hương sinh sống trên sông Tonle Sap thật cảm động.                         
  Trong một đọan ngắn, đã thể hiện được tình yêu thương, chăm sóc, đùm bọc, hy sinh cao cả của các anh chi em với nhau.
nguoi viet bien ho 1 

Tác giả :Trịnh Thanh Thủy
trích đăng ……… …
Tôi bắt đầu chuyến du hành vào vùng Biển Hồ Tonlé Sap vào một ngày nóng oi nồng khủng khiếp. Tháng tư là tháng nóng nhất của Campuchia và người dân ở đây phần lớn sống nhờ vào những cơn mưa. Chúng tôi bắt đầu chuyến đi trên một con tàu có khoảng độ 30 người chạy chầm chậm giữa dòng sông dẫn vào vùng Biển Hồ rộng lớn. Tôi thấy một con chó mực bơi cùng vài đứa nhỏ hụp lặn tắm gần bờ trong dòng nước đục ngầu màu đất sét. Gió mát thổi mơn man, xem ra cả người và vật rất vui và hạnh phúc. Những người du khách trên các tàu khác dơ tay vẫy chào chúng tôi. Khu vực Biển Hồ là nơi nhiều cá nhất trên thế giới, trên đường đi tôi thấy những con cá lóc thật lớn, quẫy đạp trên sóng nước.
Người hướng dẫn viên đoàn du lịch đang nói thao thao bất tuyệt về lịch sử dòng Cửu Long và vùng Biển Hồ Tonlé Sap, ông ta bỗng dừng lại khi thấy tàu đi ngang những căn nhà sàn lụp xụp trên cao, hai bờ con sông dài dẫn vào vùng nước mênh mang. Anh chỉ và nói nơi đó là nhà cư dân vùng này, trong đó có cả người Campuchia và rất nhiều người Việt đã đến đây sinh sống từ lâu, đời này qua đời khác. Phần lớn người Việt đều là những người nhập cư lậu, không thẻ căn cước, khai sinh hay giấy tờ hợp pháp. Họ sinh sống bằng nghề đánh cá nhưng chính quyền quy định chỉ cho đánh 6 tháng, còn 6 tháng phải nghỉ để cho thủy sản sinh sôi nên đời sống kinh tế rất chật vật. Hơn nữa không giấy tờ tùy thân họ không thể lên bờ tìm việc làm thêm, do đó cuộc sống càng khó khăn thêm. Nhìn những căn nhà vá chùm vá đụp bằng tôn hay ván, không đồ đạc hay tài sản gì giá trị, cả đoàn du lịch ai cũng chợt dấy lên một nỗi bùi ngùi thương cảm.
Khi đóng thêm một khoản tiền ngoài quy định để tham quan vùng Biển Hồ này, tôi không ngờ mình lại được thấy một vùng đất sống đặc biệt trong hành trình di dân ra hải ngoại của dân tộc mình như vậy. Lúc tàu chúng tôi bắt đầu ra đến vùng Biển Hồ sóng nước thênh thang trông không thấy bờ, bác tài công tăng thêm vận tốc, tàu chạy nhanh hơn khiến nước dạt về hai bên mạn tàu. Bỗng tôi phát hiện có một, hai rồi ba, bốn con thuyền nhỏ đang chèo đuổi theo chúng tôi. Họ chạy song song cố ý để du khách thấy. Rồi chung quanh tôi xuất hiện thật nhiều con nít, tôi ngạc nhiên con nít ở đâu ra nhiều đến vậy? Tôi nghe được tiếng xin tiền vang lên từ dưới nước. “Bác cho con tiền ăn cơm đi bác ơi”. “Cô ơi cô, cô cho tiền mua sữa nuôi con đi cô” . “Cho con một ngàn đi bà, cho con một đô đi anh.”
Người đàn bà đen nhẻm trông lam lũ, vừa cho con bú, vừa chèo thuyền, vừa xin tiền. Một đứa nhỏ cỡ hai tuổi đen đúa ở truồng, nằm cong queo phơi bụng ngủ ngon lành trong lòng tàu, một bé gái khoảng ba bốn tuổi xoè bàn tay bé xíu xin tiền du khách. Trên chiếc ghe khác, có một phụ nữ nheo nhóc đội nón lá, tay chèo, tay bồng một bé trai khoảng 1 tuổi đang khóc oa oa. Bà với lấy một con rắn hay con trăn gì đó vòng quanh cổ đứa bé cho nó chơi. Con vật ngọ nguậy dưới bàn tay bóp chặt của thằng bé và thằng bé nín khóc. Cả tàu chúng tôi trố mắt nhìn cảnh tượng thằng bé bóp cổ con rắn còn sống như xem một trò ảo thuật. Bà mẹ bắt đầu cất tiếng xin tiền. Tôi không dám có ý kiến gì nhiều về việc họ trưng bày những em bé thơ ra trong những cảnh đói rách thương tâm để làm động lòng du khách. Nhưng nó thật sự đánh đòn tâm lý vào trái tim mềm yếu, vào sự xót thương đồng hương của chúng tôi. Chúng tôi bắt đầu móc bóp lấy tiền lẻ cho họ.
Tiếng nói người hướng dẫn đoàn vang lên như một lời giải thích đúng lúc. Đời sống văn hoá và dân trí người dân ở đây rất thấp, lại không có gì giải trí nên họ chỉ biết ăn, đánh cá và sinh con thôi. Những gia đình có số con trên 9, 10 đứa là chuyện thường. Chính phủ Campuchia có để tâm tới và cử những phái đoàn tới chiếu phim, giảng dạy và giáo dục họ phương pháp ngừa thai và hạn chế sinh đẻ. Bao cao su hay áo mưa được phát hôm trước, hôm sau họ phát giác ra các em nhỏ lấy làm bong bóng thổi chơi. Hỏi tại sao thì được cho biết người dân ở đây quan niệm giàu con chứ không cần giàu của, con cái là của trời cho, nên ngừa làm gì.  Thừa hưởng một quan niệm “trời sinh, trời nuôi” của người bản xứ, đã đưa họ đến tình cảnh đông con, mà càng đông con thì càng nghèo đến nỗi nhà trơ, cửa trống, không tài sản, không đủ ăn. Các em gái lớn ở nhà nấu cơm và đan lưới, còn các em trai lớn theo cha đi đánh cá. Các em nhỏ hơn theo mẹ ăn xin hay tự bơi thuyền đi xin tiền du khách.
Bỗng người lái tàu giật mình chửi lớn khi thấy một em bé chèo chiếc thau nhôm đòi cặp vào tàu. Trời ơi chiếc thau quay vòng vòng mà em bé chèo thật hay.

nguoi viet bien ho 2 Động cơ máy tàu tạo thành dòng nước xoáy xô mạnh làm chiếc thau của em bé chao nhanh xém lật. Ai cũng giật mình kinh hãi cho em. Trông thật là tội nghiệp. 
Câu chuyện được tiếp tục với câu chuyện ngôi trường nổi giữa bốn bề sóng nước. Anh Tour guide đến gần, nhờ tôi đi quyên tiền những người hảo tâm trên tàu để giúp trường học. Anh nói lát nữa chúng ta sẽ ghé vào một quán nước, gần một trường học nổi dựng nên do một số du khách nước ngoài và những nhà từ thiện đóng góp.

nguoi viet bien ho 3
Dân ở đây tắm giặt, ăn uống và sinh hoạt bằng nước Biển Hồ nên rất mất vệ sinh. Trẻ nhỏ thường ở trần, đi ăn xin, sống thiếu thốn, không được cha mẹ cho đi học nên mù chữ. Một số nhà hảo tâm đã tài trợ cất lên ngôi trường trên một nhà bè nổi. Các giáo viên làm việc tự nguyện, không lãnh lương, dạy miễn phí cho khoảng 300 em. Các em được phát cơm, và giảng dạy chữ quốc ngữ cùng vệ sinh, đức dục. Khi tàu ghé trường học, tôi thay mặt mọi người trao tất cả số tiền cho anh giáo viên khoảng 30 tuổi đang dạy các em. Anh ngỏ lời cảm ơn, nét mặt rất xúc động. Anh chỉ mấy nồi cơm rất to gần đấy bảo các em sắp đến giờ cơm. Tôi thấy các em có khuôn mặt đẹp, rất sáng, trắng và sạch hơn các em bé đã đi ăn xin khác. Khi tàu chúng tôi đi, các em giơ những bàn tay nhỏ xíu vẫy chào.
Chúng tôi rời tàu ra quán nước nổi để dùng giải khát. Lần này thì các em xin ăn tràn lên quán nước đến gần bàn chúng tôi ngồi để xin tiền. Mọi người lại cho và cho những gì có thể, đến khi không còn gì để cho nữa. Một em bé gái độ 6, 7 tuổi ốm tong teo xách nách một đứa em trai khoảng một tuổi còn xổ sữa mập mạp, trông còn to hơn cô chị, leo lên quán nước, trong khi bà mẹ thì ngồi dưới thuyền. Em lại chỗ tôi xin tiền, cùng một đám trẻ con. Tôi đem cho các em những đồng tiền Campuchia cuối còn lại. Các em tranh giành nhau lấy tiền. Vì mắc bồng em nên em gái bị giật mất tiền. Em gái ẵm em chợt khóc oà. Em tôi ngó thấy vội trao lon sữa đậu nành của cô cho em. Em trở về con thuyền với bà mẹ, đặt đứa em xuống, lấy chai sữa không của thằng bé mở nắp và đổ sữa đậu nành vào, rồi ôm em trai vào lòng và cho em bú. Nghĩa cử của em bé gái làm ai cũng cảm động. Em được lon sữa không tự mình uống dù em ốm tong teo, mà đem cho đứa em còn thơ của mình uống, thể hiện lòng hy sinh của một người mẹ dù em còn tấm bé. Tình mẫu tử ẩn hiện đâu đó trong em như một đoá hoa không màu mè càng không phải là một màn kịch trình diễn che đậy để lấy nước mắt của người xem. Em bé Việt Nam ơi, tôi thấy em đẹp quá.
Quán nước nổi là giao điểm cuối của cuộc du hành. Tàu chúng tôi từ từ rời quán trở về bờ, để lại vùng Biển Hồ mênh mông những mảnh đời lênh đênh có cuộc sống đong đưa theo sóng nước.

………
Trịnh Thanh Thủy