Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2011

tintuccaonien.com

clip_image001

Ngày 30 tháng 09 năm 2011

1. Thử nghiệm nước tiểu để định bệnh ung thư tiền liệt tuyến

clip_image003 Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Ung thư Cambridge (Anh)và Viện Nghiên cứu Ung thư (ICR) cho biết là đã phát hiện thấy mức độ chất đạm (protein) –mang tên microsemiprotein-beta (MSMB) –hạ giảm trong nước tiểu của những đàn ông bị chẩn đóan có ung thư tiền liệt tuyến hoặc có rủi ro cao bị ung thư này. Bác sĩ Hayley Whitaker ,trưởng nhóm nghiên cứu, nói “ Chất đạm (protein) MSMB dễ dò tìm vì có mặt trong nước tiểu và chỉ cần một thử nghiệm đơn giản là có thể nhận diện ra những đàn ông có rủi ro nhiều nhất bị ung thư tiền liệt tuyến” Bà Whitaker cho biết phải chờ thêm chừng 5 năm nữa các kết quả nghiên cứu này mới có thể đưa ra áp dụng trên thực tế, và bà hi vọng vào lúc đó những kết quả này sẽ còn giúp xác định những bệnh nhân có khối u ác tính(aggressive tumors)


Ung thư tiền liệt tuyến đã cướp đi sinh mạng của khoảng 258,000 đàn ông trên toàn cầu vào năm 2008 và đứng hàng thứ nhì trong số các bệnh ung thư về nguyên nhân gây tử vong.
Các thử nghiệm xác định ung thư tiền liệt tuyến hiệu nghiệm nhất hiện nay dựa vào một chất đánhdấu sinh học duy nhất goi là prostate specific antigen (PSA). Nhưng thử nghiệm PSA trong máu không được chắc chắn vì nó có tính đặc thù thấp , dẫn đến một tỉ lệ cao về những kết quả dương tính sai lầm mà hậu quả là những ca giải phẫu và xạ trị liệu không cần thiết. Một nghiên cứu tại Hoa kỳ vào năm ngoái (2009) đã phát hiện là kết quả truy tìm ung thư tiền liệt tuyến qua thử nghiệm PSA định kỳ đã làm cho hơn 1 triệu người Mỹ bị chẩn đoán là có khối u ,mà thật ra các khối u này không gây hại gì cho họ hết.
Theo bác sĩ Rosalind Eeles, một thành viện của nhóm nghiên cứu thì “ Hiện nay, thử nghiệm PSA là phượng cách tốt nhất để dò tìm ung thư tiền liệt tuyến,nhưng nó có những giới hạn đáng kể. Vì vậy chúng ta rất cẩn tìm ra những chất đánh dấu sinh học (biomarker)mới-- như MSMB chẵng hạn-- có thễ được sử dụng đễ sàng lọc và chẩn bệnh ung thư này ”
Chất đạm (protein) MSMB -- điều hóa sự chết của tế bào tiển liệt tuyến-- được sản xuất bởi các tế bào tiển liệt tuyến bình thường. Các nhà khoa học đã lấy mẫu mô và nước ti ểu của khoảng 350 đàn ông (có và không có ung thư tiển liệt tuyến) để đo mức độ MSMB. Kết quả -- đăng trên tạp chí Public Library of Science ONE —cho thấy là MSMB trong nước tiểu của các đàn ông được chẩn đoán bị ung thư tiển liệt tuyến có mức độ thấp hơn so với nhửng đàn ông không bị bệnh. Kết quả cũng tượng tư đối với những đán ông có khối u ác tính (aggressive tumors)
Video: http://www.webmd.com/video/marks-prostate-cancer-symptoms
Urine Protein Signals Prostate Cancer – Reuter- Oct 15,2010
Chú thích
Mới đây các nhà khoa học Mỹ cũng đã triển khai một thữ nghiệm nước tiểu mới để định bệnh ung thư tiền liệt tuyến. Thử nghiệm này dựa vào công trình nghiên cứu vào năm 2005 nhận diện ra hai thay đổi gien đặc thù xẩy ra cho hơn 50% số ca ung thư tiền liệt tuyến: đó là TMPRSS2 ERG. Các gien này có thể dẫn đến sự sản xuất dư thừa một chất đạm (protein) mà người ta có thể dò tìm qua thử nghiệm nước tiểu.
Trong một thử nghiệm lâm sàng , các nhà nghiên cứu đã phân tích nước tiểu của 1,312 người đàn ông tham gia , để phân chia họ ra thành ba nhóm có rủi ro ung thư thấp, trung bình và cao. Sau khi làm sinh thiết (biopsies), số ca ung thư đả được phát hiện là 21%cho nhóm có rủi ro thấp, 43% cho nhóm có rủi ro trung bình và 68% cho nhóm có rủi ro cao. Ngoài ra kích thước và ác tính (aggressiveness) của các khối u có tương liên với các kết quả thử nghiệm nước tiểu.
Hiện nay các nhà nghiên cứu khuyến cáo nên làm thêm thử nghiệm này sau khi đã làm thử nghiệm PSA để có thể quyết định có nên gời bệnh nhân đi làm sinh thiết (biopsies) hay không.

New Urine Test for Prostate Cancer Helps Identify Risk- Robyn Nazar-2011-08-04

2.Nghệ tây - Cứu cánh mới với bệnh ung thư gan

Các nhà khoa học làm việc tại trường Đại học Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống Nhất, ở Al-Ain, đã phát hiện rằng: đầu nhuỵ hoa nghệ tây (vốn được dùng để làm thuốc nhuộm và gia vị saffron tăng cường hương vị cho thức ăn và rượu) có tác dụng ức chế sự phát triển ung thư gan ở chuột.
clip_image005clip_image007

Theo kết quả nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Hepatology tháng 8, các nhà nghiên cứu đã thấy rằng gia vị saffron (nghệ tây) có tác dụng ngăn chặn tác động của một loạt các hợp chất hoá học có khả năng gây ung thư và khôi phục các chất chống oxy hoá (như superoxide dismutase) có khả năng ức chế các tế bào ung thư.
Các nghiên cứu trước đây đã cho thấy lợi ích chống lại trầm cảm, viêm nhiễm, mất trí nhớ, và chống oxy hoá của saffron. Hơn nữa các nghiên cứu trên động vật và con người, đã khẳng định rằng saffron có thể ức chế một vài loại ung thư, tuy nhiên cơ chế chính xác về hiệu quả chống ung thư của saffron vẫn chưa được rõ
Mặc dù gia vị saffron đã được sử dụng như một phương thuốc dân gian từ nhiều thế kỷ, nhưng chỉ trong những thập kỷ gần đây nó mới được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm.
Trong nghiên cứu tại United Arab Emirates University ở Al-Ain, bác sĩ Amin và các đồng nghiệp đã cho 24 con chuột thí nghiệm (nhóm 1) ăn saffron mỗi ngày trong suốt 24 tuần. Hai tuần đầu của phác đồ điều trị, các nhà nghiên cứu đã tiêm vào các chuột này hợp chất hoá học gây ung thư gan diethylnitrosamine 2-acetylaminofluorene. Trong khi đó, thì 8 con chuột thí nghiệm khác (nhóm 2) cũng được tiêm hợp chất hoá học trên nhưng chỉ được cho uống nước cất thay vì ăn saffron
Kết quả là 6 con chuột thí nghiệm trong nhóm 2 đã phát triển các khối ung thư với các nốt sần trên gan của chúng, trong khi chỉ có 4 trong số 24 con chuột thí nghiệm của nhóm 1 là có các nốt sần trên gan. Trong số 8 con chuột của nhóm 1, vốn ăn nhiều nghệ tây nhất, thì không có con nào phát triển nốt sần ở gan.
Bácsĩ Amin và các đồng nghiệp đã chọn để nghiên cứu bệnh ung thư gan, bởi vì ung thư gan thường bị lây lan từ ung thư ở các bộ phận khác. Chẳng hạn như ung thư đại tràng hoặc ung thư vú thường kết thúc ở gan.
Saffron đã giữ trong tầm kiểm soát chất protein Ki-67giúp tế bào tăng nhanh và giảm thiểu các hơp chất khác có liên hệ tới sự tổn thương gan và “oxidative stress”. Oxidative stress là kết quả của sự mất cân bằng giữa các gốc tự do và các chất chống oxi-hóa (oxidative stress) làm cho các chất chống oxi hóa bị vô hiệu hóa. . Theo bác sĩ Amin điều này có thể dẫn đến sự tăng trưởng tế bào bất thường, một dấu hiệu báo trước ung thư. Các chất chống oxi hóa—trong đó có chất superoide dismutasre-- đã được khôi phục ở những con chuột thí nghiệm được nuôi bẳng saffron.
Một loạt các thí nghiệm riêng biệt trên các tế bào ung thư gan của người cho thấy saffron có tác dụng ức chế hoạt động của các protein then chốt --- NF-kappa B, interleukin-8 và thụ thể 1 yếu tố hoại tử khối u ( tumor necrosis factorreceptor 1) --- vốn có tác dụng làm cho tế bào khối u tăng trưởng và gây viêm. Những bẳng chứng khác còn chứng tỏ saffron khích động sư chết được chương trình hoá của các tế bào ung thư (programmed cell death), một cơ chế thường bị “đóng lại” trong trường hợp ung thư
Giáo sư Tapas Saha thuộc Lombardi Comprehensive Cancer Center , Đai học Georgetown, nói “Đây là một công trình nghiên cứu rộng lớn đem lạii những kết quả hết sức tốt đẹp.” Tuy nhiên vì saffron rất đắt nên khó mà có thể sử dụng như dược phẩm.. Giáo sư Amin cho biết nhóm nghiên cứu của ông sẽ tìm cách tổng hợp các thành phấn quan trọng của saffron. Trong khi chờ đợi , nhóm của ông dự trùsẽ thử nghiệm saffrom lên các bệnh nhân ung thư gan
Saffron takes on cancer – Nathan Seppa- Aug 30,2011

3. Hậu quả từ thói quen ngoáy tai
Cấu tạo của tai bao gồm tai ngoài, tai giữa và tai trong. Tai ngoài – đúng như tên gọi của nó--- nằm ngoài cùng trong ba bộ phận cấu tạo nên tai.
clip_image009
Tai ngoài (external ear ), tai giữa (middle ear), tai trong (inner ear) màng nhĩ (eardrum)
Tai ngoài gồm có vành tai và ống tai với cấu tạo chủ yếu là sụn, xương được bao bọc bởi một lớp da và tổ chức liên kết dưới da mỏng và lỏng lẻo. Mạch máu nuôi dưỡng cho vùng này rất nghèo nàn. Thần kinh chi phối chủ yếu là nhánh tách ra từ dây thần kinh sọ số IX, dây này vừa cảm giác tai, vừa cảm giác họng nên viêm họng cũng gây ra đau tai hoặc viêm tai ảnh hưởng ngược lại chức năng nhai và nuốt, bên cạnh đó khi ngoáy tai, người bệnh cũng có cảm giác ngứa họng và ho. Tai ngoài làm nhiệm vụ hứng sóng âm thanh trong không khí để đưa vào tai giữa và tai trong. Ống tai ngoài có các tuyến tiết ra chất bã gọi là ráy tai. Ráy tai có thể khô hoặc ướt tùy từng cá thể. Ráy tai cũng có nhiệm vụ bảo vệ thành ống tai, do thành phần ráy tai có chất kháng sinh, có tính chất dính để bẫy vi khuẩn. Ráy tai phủ một lớp trên ống tai ngoài, tránh cho các vi khuẩn, nấm tấn công vào các tổ chức của ống tai ngoài
Ngoáy tai là thói quen rất thường gặp, từ trẻ đến già, cứ ngứa tai là ngoáy, tắm xong cũng ngoáy, thỉnh thoảng lại ngoáy tai với lý do là để cho tai sạch. Họ thường dùng tăm bông hay bất kỳ một loại vật cứng nào để ngoáy tai i . Vậy ngoáy tai thường xuyên như thế có tốt không?
clip_image011
Hậu quả khi ngoáy tai nhiều
Ngoáy tai nhiều gây rách, trầy xước lớp da bảo vệ thành ống tai làm cho vi khuẩn gây bệnh dễ dàng xâm nhập vào tổ chức liên kết nằm bên dưới lớp da gây viêm ống tai - đặc biệt là khi người bệnh bơi ở những ao hồ bẩn.
Mặt khác việc ngoáy tai có thể đẩy khối ráy tai (nếu có) vào sâu hơn trong ống tai ngoài, thậm chí ấn sát vào màng nhĩ gây đau tai.
Ngoáy tai cũng có thể đưa thêm vi khuẩn, nấm từ môi trường bên ngoài xâm nhập vào da ống tai. Chảy máu tai do rách da ống tai ngoài là một trong những tai biến hay gặp nhất của việc ngoáy tai..
Nếu ngoáy tai làm nhiễm khuẩn ống tai ngoài, tai sẽ đau nhức, chảy mủ, ù tai, nghe kém thậm chí một số bệnh nhân đến khám khi ống tai ngoài bị viêm tấy lan tỏa ra nửa mặt, chảy máu lẫn nước mủ ra cửa tai.
clip_image013
Ngoáy tai có thể gây thủng màng nhĩ.

Viêm ống tai là hậu quả thường gặp
Triệu chứng ban đầu của viêm ống tai là ngứa tai, ngứa tai ngày càng tăng dần đặc biệt nếu ngoáy tai nhiều, sau đó bệnh nhân có biểu hiện tức tức trong ống tai rồi bắt đầu cảm giác đau tai, ngày càng tăng, đau nhức nhối, đau lan lên đầu, nhiều bệnh nhân nói có cảm giác đau giật lên nửa đầu. Biểu hiện đau càng nhiều lên khi bệnh nhân nhai hoặc ngáp. Trường hợp nặng có thể xuất hiện sốt 38 - 39ºC, sưng tấy nửa mặt bên tai đau, chạm nhẹ vào tai cũng đã đau.
Khám thấy da ống tai ngoài đỏ, nhiều dịch bẩn ứ đọng, ống tai ngoài bị chít hẹp một phần hay toàn bộ tuỳ theo mức độ viêm, nếu độc tố vi khuẩn quá mạnh gây nên viêm tấy lan toả ống tai ngoài lan rộng làm sưng tấy cả góc hàm bên tai, đau kèm theo xuất hiện hạch nhỏ cùng bên, di động, ấn đau. Màng nhĩ vẫn bình thường.
clip_image015
Nhiễm nấm do ngoáy tai.

Cách xử trí đúng một số biểu hiện khó chịu của tai
Khi ngứa tai, tức là ống tai ngoài đang bị tổn thương, càng ngoáy sẽ làm thương tổn lan rộng và nặng nề hơn. Lúc này nên nhỏ thuốc dùng cho tai ngoài trong vòng một tuần. Những loại thuốc nhỏ tai dùng trong trường hợp viêm ống tai ngoài là những thuốc dùng trong khi màng nhĩ không thủng, chủ yếu là những thuốc điều trị bệnh lý của ống tai ngoài như viêm ống tai ngoài, nhọt ống tai ngoài, chấn thương rách da ống tai như polydexa, thuốc sát khuẩn tại chỗ betadine... đôi khi có tác dụng giảm đau của màng nhĩ khi sung huyết trong viêm tai giữa cấp giai đoạn đầu của bệnh như otipax.
Nếu nước vô tình vào trong ống tai khi tắm hoặc bơi gây cảm giác ù tai: lấy que tăm bông đặt nhẹ vào trong ống tai, để yên trong vòng 5 phút, nước sẽ bị bông khô tự động hút hết, tuyệt đối không nên lau chùi nhiều.
Nếu sau khi ngoáy tai đau và chảy máu phải điều trị tại các cơ sở tai mũi họng: Đặt thuốc, nhỏ thuốc tai tại chỗ nếu viêm ống tai ngoài mức độ nhẹ. Nếu nặng phải dùng kháng sinh, kháng viêm toàn thân kết hợp với giảm đau và làm thuốc tai tại chỗ.
Viêm ống tai ngoài là bệnh rất hay tái phát nếu vẫn giữ thói quen ngoáy tai khi ngứa.

Video:Thú lấy ráy tai của ngưới Á châu
http://www.youtube.com/watch?v=Z73Yf-wo2UQ&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=TfYMHNViyBc&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=lTeq72hzBFI&feature=related
http://www.youtube.com/watch?v=g4xSSRlATfQ&feature=related