Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

TRUNG QUỐC:: GÃ KHỔNG LỒ XẤU XÍ CHÂN ĐẤT SÉT

Fr: Do Viet
1. Trung Quốc bắt kịp Hoa Kỳ ?   
         Con Thiêu Thân Đang Tìm Ngọn Lửa… 
                                                          Gs .Nguyễn Xuân Nghĩa

    Khi kinh tế Trung Quốc qua mặt Nhật Bản vào năm 2010, Quỹ Tiền tệ Quốc tế mau mắn dự báo một vụ qua mặt nối tiếp. Từ 10 ngàn tỷ 128 triệu Mỹ kim vào năm 2010 (10.128 triệu), sản lượng kinh tế Trung Quốc sẽ tăng gấp đôi và lên tới 20 ngàn tỷ 440 triệu (20.440 triệu) vào năm 2017.Cùng lúc ấy, sản lượng kinh tế Hoa Kỳ từ gần 15 ngàn tỷ (14.498 triệu) chỉ lên tới 20 ngàn tỷ 77 triệu (20.077 triệu): Mỹ lãnh huy chương bạc, nhường chức vô địch cho Trung Quốc…..

Giới kinh tế tài chánh ưa vui chơi với con số tính nhẩm là 70. Giả dụ như muốn tăng sản lượng gấp đôi trong bảy năm – như từ năm 2010 qua 2011, 2012… đến 2017 – thì hãy lấy số 70 chia cho bảy. Vị chi là phải có đà tăng trưởng 10% một năm (70/7). Muốn gấp đôi trong hai năm thì mỗi năm phải tăng 35%. Nếu đà tăng trưởng chỉ có 2% một năm thì phải đợi 35 năm….
Theo dự phóng nói trên của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, kinh tế Trung Quốc vẫn duy trì được đà tăng trưởng 10% của hai thập niên trước. Lạc quan tếu.
Tính đến giữa năm thì chỉ tiêu tăng trưởng 7,5% cho năm nay của lãnh đạo Bắc Kinh đã có dấu hiệu bất khả. Được 7% là mừng, nhiều phần sẽ chỉ là 6%. Mà 7% một năm thì đấy đã là chỉ dấu “hạ cánh nặng nề” – hard landing - với khá nhiều vất vả.
Qua năm năm tới đây, nếu kế hoạch cải tổ cơ chế được áp dụng để đưa kinh tế qua hình thái phát triển dựa vào phẩm hơn lượng, vào tiêu thụ nội địa hơn là đầu tư hay xuất cảng, nôm na là nâng mức tiêu thụ khoảng 37% của Tổng sản lượng lên tỷ trọng 50% như các xứ khác thì tốc độ tăng trưởng hàng năm của kinh tế Trung Quốc sẽ phải giảm – và ở dưới 5%.
Tức là sản lượng chỉ nhân đôi trong 14 năm, khi ta tính nhẩm bằng hệ số 70. Đấy cũng là thời điểm mà dân số Trung Quốc hết tăng, và bắt đầu giảm, kể từ năm 2026. Trong khi dân số Hoa Kỳ vẫn tăng.
Siêu cường trẻ trung và hung hăng là nước Mỹ cứ cãi nhau lung tung nhưng vẫn phơi phới đi lên.Còn đế quốc cổ xưa của Thiên triều đỏ thì chưa kịp giàu đã già. Nên đành lỡ hẹn với lịch sử. Không chỉ lỡ hẹn, mà còn nghẹn ngào ứa lệ. Có khi đổ máu…
***
Trước sự lớn mạnh đột ngột của Trung Quốc kể từ khi Đặng Tiểu Bình giành lại quyền bính và tiến hành cải cách từ đầu năm 1979 – nhồi trong “bài học cho Việt Nam” – nhiều người Việt đã lo sợ cho tương lai bên cạnh một nước láng giềng xưa nay không hề che giấu tinh thần đại bá.
Một số người thì cho rằng mô hình Trung Quốc hay phép “đồng thuận Bắc Kinh” là phép màu phát triển Việt Nam, với đảng độc quyền dựa trên khu vực kinh tế nhà nước và xây dựng chế độ tư bản nhà nước theo quy luật thị trường. Đấy là quan điểm “lưỡng lợi” của thiểu số lưu manh, muốn duy trì ách độc tài để bảo vệ đặc quyền lẫn đặc lợi.
Một số người tử tế thì cho rằng về dài, cả hai mô thức phát triển kiểu tự do của Hoa Kỳ hay tập quyền của Trung Quốc sẽ có lúc “đồng quy”: chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ cần sự can thiệp của nhà nước để điều chỉnh những thái quá của thị trường và chủ nghĩa tư bản nhà nước kiểu Trung Quốc sẽ mở rộng không gian sinh hoạt của tư nhân và thị trường. Về dài thì Tầu Mỹ gì cũng gặp nhau.
Y như sự ngớ ngẩn của cánh tả năm xưa, người ta muốn tìm giải pháp trung dung của lực lượng thứ ba, với ưu điểm từ cả hai hệ thống tự do lẫn kế hoạch. Việc Trung Quốc vượt mặt Hoa Kỳ sau khi cải cách kinh tế chỉ chứng minh sự sáng suốt của con đường thứ ba.
Sự thật lại không trừu tượng và sạch sẽ như vậy.
***
Hoa Kỳ và Trung Quốc có kích thước tương tự, 10 triệu cây số vuông, mà khác biệt về địa dư hình thể.
Hoa Kỳ có lãnh thổ vuông vức và hệ thống sông ngòi thuận lợi bên trong nên có tiềm lực rất cao về sản xuất nông nghiệp, dư thừa lương thực để nuôi sống một dân số cao gấp bội. Trong khi lãnh thổ bát ngát của Trung Quốc thiếu đất và nước cho nhu cầu sinh hoạt, và diện tích khả canh tính theo đầu người chỉ bằng một phần ba của trung bình thế giới mà thôi.
Hình thể bất cân xứng còn là bài toán hợp tan ngàn đời.
Miền Đông hay Trung Nguyên trù phú nhờ độ ẩm đủ cao cho canh tác và nhờ lưu vực Hoàng hà và Trường giang tương đối thuận lợi cho giao thông buôn bán. Đây là nơi sinh sống của 400 triệu người, với mật độ dân số quá cao. Phần còn lại là khu vực hoang vu khô cằn rộng lớn bên trong, rất khó phát triển để nuôi sống 900 triệu dân.
Trong hoàn cảnh đó, một số tích cực thì đi làm “dân công” để kiếm ăn mà không có hộ khẩu và mạng lưới an sinh tối thiểu. Khoảng 250 đến 300 triệu dân công đã có cuộc sống tạm bợ mà kéo dài mấy chục năm. Họ từ nông thôn đi ra tỉnh, từ miền Tây đi làm gia công ở miền Đông.
Vì vậy, phát triển khu vực nội địa nghèo đói là ưu tiên chiến lược của trung ương, qua các dự án đầu tư kém hiệu năng và lại gặp trở lực của các tỉnh duyên hải muốn bung ra thị trường bên ngoài của thế giới. Đấy là bài toán hướng nội và hướng ngoại của hai khu vực quá khác biệt.
Kinh tế Trung Quốc có ưu thế là dân số đông nhất địa cầu. Nhưng ưu thế này mất dần sau bốn chục năm kế hoạch hóa gia đình với chế độ “mỗi hộ một con” và vì nếp văn hóa trọng nam khinh nữ. Mà dân số là một yếu tố chi phối khả năng sản xuất trong trường kỳ….
Ngoài tai ách về địa dư hình thể nằm trong gia phả, lãnh đạo Bắc Kinh còn gặp năm bài toán xuất phát từ dân số:
1) Lương bổng gia tăng ở nơi có mật độ dân số quá cao nên kinh tế mất sức cạnh tranh; 2) lương bổng thấp ở các vùng kém phát triển bên trong khó nâng cao khả năng tiêu thụ nôi địa để cân bằng lại cơ cấu kinh tế cho khỏi lệ thuộc vào đầu tư và xuất cảng; 3) dân số bị lão hóa với tỷ trọng cao niên gia tăng so với lực lượng ở vào tuổi lao động sản xuất nên gánh nặng xã hội chỉ tăng chứ không giảm; 4) dân số hết tăng kể từ năm 2026 và còn giảm dần để đến cuối thế kỷ thì chỉ còn 950 triệu nên sẽ làm giảm sức sản xuất; và 5) tỷ lệ tính phái nam đông hơn nữ tiếp tục mở rộng, cho đến 2020 sẽ là 130/100, nên ảnh hưởng đến sinh suất và cả sự ổn định xã hội. Con số 124 có thể tóm lược mấy bài toán này: một người phải nuôi song thân và bốn ông bà bên nội bên ngoại!
Nhìn rộng ra ngoài thì không xã hội nào có thể đạt mức tăng trưởng cao với một dân số giảm sút.Với Trung Quốc, tình hình sẽ tệ hơn vì 30 năm chỉ biết lượng hơn phẩm nên đà tăng trưởng 9-10% để lại một di sản ô nhiễm vĩ đại cho thế hệ về sau. Một lãnh thổ thiếu đất canh tác ở trên, 90% mạch nước ngọt ở dưới thì khô cạn hoặc chứa đầy độc chất: cường quốc kinh tế này thật ra không có tương lai!
Thiên triều đỏ ở trên không thể không thấy ra những nhược điểm này.
***
Họ nói đến phẩm hơn lượng và cụ thể là muốn đi từ hình thái phát triển kỹ nghệ chế biến với nhân công rẻ và năng suất thấp lên một trình độ tổ chức và sản xuất cao hơn. Như Nhật Bản hay Nam Hàn, từ cả chục năm nay, Trung Quốc muốn thoát khỏi ưu thế ảo là “hãng xưởng ráp chế toàn cầu” và xây dựng khu vực sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn nhờ tinh thần sáng tạo.
Nhưng kết quả là một sự nghèo nàn vì từ căn bản, họ chỉ có nền văn hóa kinh doanh kiểu cóp nhặt. Ngày nay, hơn 80% mặt hàng “cao kỹ” – loại “hi-tech” có nhãn hiệu “Made in China” – chỉ là sản phẩm gia công làm cho doanh nghiệp ngoại quốc. Nếp văn hóa ăn cắp theo nghệ thuật “ăn của địch để đánh địch” từng được dựng thành quốc sách nay tỏa xuống thần dân là cái thói không tôn trọng tác quyền của thiên hạ. Mà nền kinh tế hay giáo dục và đào tạo không thể lấy sức mạnh từ tri thức và sáng tạo nếu thiếu tự do và phản ứng cầu tiến.
Ngần ấy lý do đều dẫn tới việc Trung Quốc khó bước lên bậc thang cao hơn của tiến trình sản xuất dựa trên tri thức và sáng tạo – dùng cái đầu hơn bắp thịt. Tức là việc kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Hoa Kỳ chỉ là chuyện xa vời.
Nhưng vấn đề không nằm ở đó.

***Vấn đề của Trung Quốc nằm ở các nhược điểm không thể cải sửa của nền kinh tế phi cầm phi thú – nửa dơi nửa chuột của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của chế độ độc tài. Vì vậy, họ đầu tư và đi vay với nhiều lãng phí, mà lại trút đặc lợi vào khu vực kinh tế nhà nước, cho tay chân và thân tộc của lãnh đạo. Sự hình thành của các nhóm lợi ích cấu kết với con ông cháu cha – Thái tử đảng – còn cản trở mọi nỗ lực cải cách hoặc chuyển hướng. Đấy là một vấn đề kinh tế chính trị cực kỳ nan giải của một quốc gia rộng lớn không có thể chế liên bang và quy ước dân chủ.
Vấn đề còn nan giải và kinh hãi hơn vậy thuộc về lãnh vực văn hóa xã hội: đa số người dân Trung Quốc ngày nay lại hài lòng với chế độ chính trị và bộ máy quyền lực của nhà nước. Họ hãnh diện về uy thế quốc tế của xứ sở, không thấy ra vấn đề của đất nước và chẳng muốn thay đổi hệ thống cai trị. Vì trên dưới đều một lòng, Trung Quốc đang là cường quốc sẽ có ngày vấp ngã.
Đó là cuộc hẹn của con thiêu thân với ngọn lửa rực sáng.
----  2. Phải thoát Tàu                         Gs Nguyễn Văn Tuấn
Những sự việc gần đây như ngư dân VietNam bị Tàu tấn công nhắc nhở chúng ta rằng Tàu là cạm bẫy, là rủi ro. Các lãnh đạo VN, từ cấp thấp đến cấp cao, đều than phiền rằng mối quan hệ giữa VN và và China có quá nhiều cạm bẫy. Ấy thế mà các thế hệ lãnh đạo VN tiếp tục đưa VN vào quĩ đạo của Tàu. Những dấu hiệu dồn dập trong thời gian gần đây cho thấy nhà cầm quyền VN ngã về phía Tàu. Nói lịch sự như Alan Phan là "định hướng" Tàu. Nhưng người dân bình thường ít chữ nghĩ hơn thì nói dễ hiểu hơn: theo Tàu. Theo tức là chạy theo đuôi người ta. Theo Tàu là bắt chước và chạy theo đuôi Tàu.
Trước hết là một thắc mắc nhỏ về chữ “Trung Quốc”. Hiểu theo nghĩa thông thường Trung Quốc là “quốc gia trung tâm”. Nhưng nghĩa đằng sau có lẽ là trung tâm của thế giới, là middle kingdom. Nhưng có lẽ VN là nước duy nhất trên thế giới gọi China là “Trung Quốc”. Trước 1975, ở miền Nam chẳng có danh từ Trung Quốc. Nhưng sau này tự nhiên chữ Trung Quốc xuất hiện, và trở thành chính thức. Cách gọi đó cũng là một cách thần phục chăng? Tôi nghĩ cách thích hợp nhất là gọi họ là China, hay ngắn hơn là Tàu. Hai cách gọi này chẳng có ý xúc phạm họ và dứt khoát chẳng có ý nghĩa thần phục họ.
Ngày nay, phải thừa nhận rằng VN rất giống Tàu. Hình như cái gì Tàu có thì ta cũng có. Kinh tế thì rập khuôn theo Tàu, nhưng sau họ cả chục năm. Tàu có nhóm lợi ích thì VN cũng có. Tàu có phong trào “thái tử đỏ” thì VN cũng có nhưng qui mô nhỏ hơn. Tàu có tình trạng gian lận bằng cấp và gian dối khoa học thì VN cũng y chang. Ngay cả tên tờ báo (như Nhân Dân) mà cũng y chang như Tàu. Đồng phục quân đội cũng na ná giống Tàu, rất khó phân biệt. Sự rập khuôn theo Tàu phải nói là đáng kinh ngạc!
Càng kinh ngạc hơn về sự hiện diện của Tàu trên toàn nước VN. Hơn 90% (?) những gói thầu xây cất là của người Tàu. Mỗi công trình, từ cầu đường đến nhà máy,Tàu xây xong là một thảm hoạ cho VN. Báo chí VN đã từng đưa tin người Tàu ồ ạt sang VN làm công nhân và ở lại. Tôi kinh ngạc khi biết họ về tận các vùng sâu như U Minh (căn cứ cách mạng ngày xưa) lấy vợ và ở luôn trong đó. Vùng Tây Nguyên người Tàu đã có mặt trên 10 năm nay. Có những nơi thậm chí hình thành nhưng khu phố Tàu. Mới đây ở Vịnh Hạ Long hàng quán Tàu cũng xuất hiện làm cho người ta không biết đó là phố ở Tàu hay ở Việt Nam? Một điều trớ trêu là Việt kiều về thăm VN thì bị kiểm tra gắt gao (thậm chí theo dõi), còn Tàu vào VN thì … thoải mái. Tàu chẳng những vào VN mà còn định cư luôn ở VN, nhưng hỏi chính quyền thì người này đùn đẩy cho người kia.
Ở VN các bậc tiền bối đã từng hô hào "thoát Á luận" hay "thoát Trung luận". Người dân chẳng cần dấu diếm gì để gọi Tàu là kẻ thù của VN. Chẳng những là kẻ thù, mà quan trọng hơn là “kẻ thù truyền kiếp”. Đó là cách hiểu của phần đông người Việt. Cho đến ngay nay, kẻ thù truyền kiếp này vẫn xứng đáng với cách gọi đó, vì chúng còn đang gieo rắc đau khổ cho người Việt. Do đó, không ngạc nhiên khi các bậc tiền bối thuyết phục rằng cần phải thoát khỏi ảnh hưởng của Tàu thì VN mới cất cánh được. Ấy thế mà ngày nay VN đang ngã theo quĩ đạo của Tàu.
Dĩ nhiên, ngoài mặt thì nhà cầm quyền chối rất hăng: chúng tôi chẳng theo ai cả. Nhưng tín hiệu rò rỉ đây đó cho thấy không ít người đương quyền theo Tàu, hay thậm chí thờ Tàu. Một ông đại tá phó giáo sư nhắc nhở các hiệu trưởng đại học rằng Tàu và VN có cùng ông tổ: Mác Lê. Một quan chức ngoại giao chuyên về đàm phán biên giới cho rằng việc Tàu cắt cáp tàu thăm dò dầu khí của ta như là ông anh cả phạt nhẹ thằng em nhỏ. Báo chí thì rất say sưa với những màn tuyên truyền về sức mạnh quân sự của Tàu, về sự hiện đại của Tàu, như hàm ý nói theo Tàu là đúng hướng. Đúng hướng hay không thì chưa biết, nhưng những viễn ảnh theo Tàu đã được bác Alan Phan vẽ ra trước đây, và phải nói là rùng rợn. Nếu theo Tàu mà không rùng rợn thì VN chắc cũng thê thảm.
Dân gian bây giờ truyền tụng câu "Theo Tàu thì mất nước, theo Tây thì mất đảng." Tây ở đây là Mĩ. Trong thực tế thì chúng ta đã mất một phần Thác Bản Giốc. Nghe đâu diện tích đất VN mất về Tàu tương đương diện tích tỉnh Thái Bình. Dân thì đồn đại mà Nhà nước thì im lặng. Sự im lặng của nhà cầm quyền càng tăng trọng lượng lời đồn mất đất. Còn mất biển thì chúng ta đã và đang thấy. Còn đâu câu nói giữ từng tất đất của tiền nhân. Còn đâu câu "hãy cùng nhau giữ nước". Rất khó “cùng nhau” khi người trẻ xuống đường chống kẻ thù thì bị đi tù.
Nhưng từ xưa đến nay, từ Âu dang Á, chưa có nước nào theo Tàu mà phát triển nổi. Tấm gương cụ thể nhất là VN. Trong và sau thời chiến theo Tàu mà đến nay thì càng lúc càng tụt hạng. Trước đó, Tàu đừng đô hộ VN, và chúng đã ăn cắp biết bao tài sản của VN. Chúng đã đốt sách của ta. Những dĩ nhiên trong thời gian dài đô hộ đó hai nước cũng có giao thoa văn hoá, tốt có, xấu có.
Ngược lại, hình như nước nào thoát khỏi vòng kiềm toả của Tàu, hay thoát khỏi tư duy Á châu thì khá lên thấy rõ. Tôi có lần nói chuyện với giới trí thức Nhật, và họ cho biết rằng Nhật vẫn xem Tàu là “đàn anh”. Dù xem là đàn anh, nhưng Nhật rất khinh Tàu. Người Nhật cũng sớm thoát ảnh hưởng của các tư tưởng Tàu, sẵn sàng du nhập tư tưởng phương Tây từ rất lâu, và chúng ta đã thấy Nhật trở thành cường quốc như thế nào. Một “kẻ thù” của Nhật là Hàn Quốc, nhưng khác với Tàu, người Nhật có vẻ kính nể người Hàn. Hàn Quốc cũng vứt bỏ Tàu để làm bạn với Âu Mĩ, và chúng ta thấy Hàn Quốc đang phát triển ngoạn mục.
Tàu dĩ nhiên từng có một nền văn minh sáng chói. Tàu cũng là một trong những cái nôi văn hoá lớn. Nhưng đó là Tàu của ngàn năm trước, chứ Tàu ngày nay thì chẳng có gì để chúng ta phải học. Dưới chế độ Mao, thay vào những nét văn hoá tinh tuý nhất là tinh thần quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi, là vô văn hoá, là lưu manh. Các quan chức Tàu khi ra ngoài hành xử như nhưng kẻ côn đồ thất học và vô văn hoá. Người Tàu ra ngoài cũng thể hiện cái cốt lõi bần tiện và man di của họ. Do đó, người ngoài, kể cả người Á châu, rất khinh Tàu.
Cá nhân tôi nghĩ VN cần phải thoát Tàu và ủng hộ những tư tưởng thoát Tàu. Chúng ta có câu “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Tàu là cạm bẫy, là mực đen; Âu Mĩ là ánh sáng (cũng có góc tối, nhưng nói chung là sáng hơn Tàu). Vậy thì lựa chọn đã quá rõ. Chẳng những thoát Tàu mà còn thoát Á (như Nhật vậy). Thoát Tàu không có nghĩa là chúng ta không chơi với họ. Thật ra tôi có nhiều bạn Tàu, học trò Tàu, nhưng chúng tôi duy trì tình bạn, tình đồng nghiệp, chứ dứt khoát không học cách ứng xử Tàu của họ. Ông bà mình có câu “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nếu mỗi chúng ta nhận ra những cái gì của Tàu trong đầu mình và cách làm của mình hàng ngày, và lọai bỏ chúng thì dần dần chúng ta sẽ có đủ momentum để thoát Tàu. Để nhận ra những thói đó chỉ cần đọc cuốn “Người Trung Quốc xấu xí” thì biết ngay.
(Source: FB Nguyễn Văn Tuấn)